Tổ chức lại quân đội Alfred_Đại_đế

Đồng penny bạc dùng để tặng của Alfred Đại đế, 871899. Dòng chữ: AELFRED REX SAXONUM "Ælfred Vua của người Saxon".

Các bộ tộc German xâm chiếm nước Anh vào thế kỷ thứ năm và thứ sáu dựa vào lực lượng bộ binh không mang giáp, hoặc fyrd [33]. Fyrd là lực lượng dân quân địa phương trong lãnh địa Anglo-Saxon, mà trong đó tất cả người tự do đều phải tham gia; những người từ chối nghĩa vụ quân sự sẽ bị phạt tiền hoặc mất đi đất đai [34], Theo một bộ luật của vua Ine của Wessex, ban hành vào năm 694:

Nếu một nhà quý tộc nắm giữ đất đai bỏ qua nghĩa vụ quân sự, anh ta phải nộp 120 shilling và mất đất; một nhà quý tộc không có đất phải nộp 60 shilling; một người dân thường phải trả tiền phạt là 30 shilling cho bỏ qua nghĩa vụ quân sự.[35]

Lịch sử những thất bại của xứ Wessex trước sự thành công của ông vào năm 878 đã khiến Alfred nhận ra rằng hệ thống chiến đấu truyền thống mà ông thừa kế đã mang lại lợi thế cho người Danes. Trong khi cả người Anglo-Saxon lẫn Danes đều tấn công các khu định cư để chiếm tài sản và các nguồn tài nguyên khác, họ sử dụng những chiến lược tấn công rất khác nhau. Trong các cuộc tấn công, người Anglo-Saxon thích tấn công trực diện bằng cách tập hợp lực lượng của họ trong theo đội hình khiên, áp sát mục tiêu và đánh bại đội hình khiên của đối phương [36].

Ngược lại, người Danes lại thích lựa chọn các mục tiêu dễ dàng, thiết lập bản đồ đột phá thận trọng để tránh việc dồn hết quân của họ vào một cuộc tấn công mang tính rủi ro cao. Alfred nhận ra chiến lược của người Danes là phát động các cuộc tấn công quy mô nhỏ hơn từ một cơ sở an toàn, nơi mà họ có thể rút lui nếu quân của họ gặp phải sự kháng cự mạnh [36].

Các cơ sở này đã được chuẩn bị trước, thường bằng cách chiếm lấy một địa điểm và củng cố phòng thủ xung quanh bằng mương, tường thànhhàng rào bằng cọc. Một khi bên trong pháo đài, Alfred nhận ra, người Danes có được lợi thế hơn đối phương [36].

Điều này khiến người Anglo-Saxon khi đang tập hợp lực lượng để bảo vệ chống lại kẻ cướp cũng khiến cho họ dễ bị tổn thương trước các cuộc tấn công của người Viking. Trách nhiệm của các lãnh chúa là để đối phó với các cuộc tấn công tại địa phương. Nhà vua có thể kêu gọi lực lượng dân quân quốc gia để bảo vệ vương quốc; Tuy nhiên, trong trường hợp người Viking dùng chiến thuật tấn công đánh và chạy, vấn đề trong việc liên lạc và cung cấp lương thảo cũng có nghĩa rằng các lực lượng dân quân quốc gia không thể tập trung đủ nhanh. Các khu vực rộng lớn hơn có thể bị tàn phá trước khi fyrd mới đến nơi. Và mặc dù các chủ đất có nghĩa vụ với nhà vua trong việc cung cấp quân khi được kêu gọi, trong cuộc tấn công vào 878, nhiều chủ đất đã bỏ rơi vua của họ và cộng tác với Guthrum [37][38].

Với những bài học này, Alfred vào những năm tương đối yên bình ngay sau chiến thắng của ông tại Edington đã tập trung vào một kế hoạch đầy tham vọng trong việc thay đổi cơ cấu phòng thủ quân sự của vương quốc. Trên một chuyến đi đến Rome, Alfred đã ở lại với Charles Hói và có thể là ông đã học hỏi cách vị vua Carolingian đã xử lý các vấn đề liên quan đến người Viking như thế nào, và từ những kinh nghiệm này mà thiết lập một hệ thống thuế và quốc phòng cho vương quốc. Vì vậy, khi người Viking bắt đầu tấn công trở lại vào năm 892, Alfred đã có thể đối phó với họ bằng một đạo quân cơ động, một mạng lưới các đơn vị đồn trú, và một đội tàu nhỏ trong việc điều hướng các con sông và cửa sông [39][40][41].

Hành chính và thuế

Người dân ở nước Anh thời Anglo-Saxon có nghĩa vụ dựa trên diện tích đất của họ; những cái gọi là "gánh nặng chung" này bao gồm nghĩa vụ quân sự, sửa chữa pháo đài và cầu cống. Nghĩa vụ có truyền thống này được gọi là trinoda neccessitas hoặc trimoda neccessitas [42]. Tên tiếng Anh cổ cho tiền phạt vì tội bỏ qua nghĩa vụ quân sự được gọi là fierdwite hoặc fyrdwitee [35].

Để duy trì các công sự burh và tổ chức lại dân quân fyrd như một đội quân thường trực, Alfred mở rộng hệ thống thuế và nghĩa vụ quân sự dựa vào năng suất từ diện tích đất của người dân. Da thú là đơn vị cơ bản của một hệ thống mà trên đó các nghĩa vụ công cộng của người dân được đánh giá. Một miếng da thú được cho là đại diện cho số lượng đất cần thiết để hỗ trợ cho một gia đình. Các miếng da thú sẽ khác nhau về kích thước dựa theo giá trị và nguồn tài nguyên của đất đai và chủ đất sẽ phải cung cấp dịch vụ dựa trên bao số da thú mà người đó sở hữu [42][43].

Hệ thống Burghal

Xem thêm: Burghal Hidage
Bản đồ tên gọi của các burh được ghi lại trong Burghal Hidage.

Tại trung tâm của hệ thống phòng thủ quân sự được cải cách bởi Alfred là một mạng lưới các burh, phân bố tại các điểm chiến lược trên khắp vương quốc [44]. Tổng cộng có ba mươi ba burh, cách nhau khoảng 30 km (19 dặm), cho phép quân đội đương đầu với bất kỳ các cuộc tấn công nào trong vương quốc chỉ trong một ngày [45][46].

Burh của Alfred (sau này gọi là thị xã) kéo dài từ các thị trấn La Mã trước đây, chẳng hạn như Winchester, nơi những bức tường đá cũ được sửa chữa và bổ sung thêm, cho đến những bức tường bằng đất khổng lồ bao quanh bởi mương rộng có thể được gia cố bằng gỗ và tường bằng cọc như tại Burpham, Sussex [47][48]. Kích thước của burh dao động từ tiền đồn nhỏ bé như Pilton đến các công sự lớn ở các thị trấn, lớn nhất là ở Winchester [49].

Một tài liệu mà ngày nay gọi là Burghal Hidage cung cấp một cái nhìn sâu hợn về cách mà hệ thống này hoạt động. Nó liệt kê chỉ số hidage cho mỗi thị trấn được ghi lại trong tài liệu. Ví dụ, Wallingford có hidage là 2400 có nghĩa rằng các chủ đất có trách nhiệm cung cấp và cho ăn cho khoảng 2.400 người, một số lượng đủ để duy trì một bức tường dài 9.900 feet (3,0 km) [50]. Tổng cộng có 27.071 binh sĩ cần thiết cho hệ thống, tức là khoảng một trên bốn người trên tổng số tất cả những người tự do sống trong Wessex [51].

Nhiều burh là các thị trấn đôi nằm lên một con sông và nối với nhau bằng một cây cầu kiên cố, giống như những cái xây dựng bởi Charles Hói một thế hệ trước [40]. Các burh đôi chặn lối đi trên sông, buộc tàu Viking phải di chuyển bên dưới một câu cầu được đồn trú với những người lính được trang bị với đá, giáo hoặc cung tên. Một số burh là các vị trí được bố trí gần khu biệt thự hoàng gia có công sự cho phép nhà vua kiểm soát tốt hơn các thành lũy của ông [52].

Mạng lưới các burh được đồn trú này gây ra những trở ngại đáng kể cho những người Viking xâm lược, đặc biệt là những người mang đầy chiến lợi phẩm. Do thiếu công cụ vây thành người Viking chỉ còn cách bỏ đói burh để khiến họ phục tùng, nhưng điều này lại cho phép nhà vua phái quân thường trực hoặc đơn vị đồn trú từ burh láng giềng đến để hỗ trợ. Trong trường hợp như vậy, người Viking cực kỳ dễ bị tổn thương do gặp phải sự truy đuổi từ lực lượng quân sự của nhà vua [53]. Hệ thống burh mà Alfred đặt ra có tính hiệu quả cao khi mà người Viking tấn công trở lại vào năm 892, người Anglo-Saxon đã có thể hạn chế sự thâm nhập của họ đến các vùng biên giới phía phía ngoài của Wessex và Mercia [54].

Hệ thống phòng thủ này của vua Alfred mang tính cách mạng trong quan niệm chiến lược nhưng cũng khá tốn kém trong việc thực thi. Người viết tiểu sử đương đại là Asser viết rằng nhiều nhà quý tộc đã ngần ngại trước những yêu cầu mới đặt ra cho họ mặc dù chúng phục vụ cho "nhu cầu chung của vương quốc" [55][56].

Hải quân

Alfred, cải trang làm một nhà thơ, được giới thiệu với Guthrum, ảnh từ Bill Nye's Comic History of England

Vào năm 896 [57], Alfred ra lệnh cho xây dựng một hạm đội nhỏ, khoảng vài chục con thuyền dài có 60 mái chèo, dài gấp hai lần kích thước tàu chiến Viking. Đây không phải là sự ra đời của Hải quân Anh như người dưới thời Victoria khẳng định vì trước đây Wessex đã có trong tay một hạm đội hoàng gia. Vua Athelstan của Kent và Ealdorman Ealhhere đã đánh bại một đội tàu Viking vào năm 851, thu giữ chín con tàu [58], và chính bản thân Alfred đã chỉ đạo các hoạt động hải quân vào năm 882 [59].

Tuy vậy, tác giả của Ký sự Anglo-Saxon và có lẽ là chính bản thân vua Alfred coi năm 897 là một bước đánh dấu quan trọng trong sự phát triển sức mạnh hải quân của xứ Wessex. Bộ Ký sự đã ca ngợi sự bảo trợ của hoàng gia bằng cách khoe khoang rằng tàu của Alfred là không chỉ lớn hơn, nhưng nhanh hơn, ổn định hơn và cưỡi sóng cao hơn so tàu của người Đan Mạch và Frisian. Rất có thể là dưới sự giúp đỡ của Asser, Alfred sử dụng thiết kế của tàu chiến Hy Lạp và La Mã, được thiết kế để chiến đấu chứ không phải để điều hướng [60].

Alfred cũng lưu tâm đến sức mạnh trên biển - nếu ông có thể đánh chặn các đội tàu cướp phá trước khi chúng đổ bộ, ông có thể bảo vệ vương quốc của ông khỏi sự tàn phá. Tàu chiến của Alfred tuy vậy chỉ mạnh về mặt lý thiết. Trong thực tế chúng quá lớn để có thể cơ động tốt trong vùng biển gần các cửa sông và con sông, những nơi duy nhất có thể xảy ra hải chiến [60].

Các tàu chiến vào thời điểm đó không được thiết kế để tiêu diệt tàu chiến khác mà là được dùng làm tàu chở quân. Đã có ý kiến cho rằng, giống với các trận hải chiến ở Scandinavie vào cuối thời Viking, những trận hải chiến ở nước Anh có thể bao gồm việc một chiếc tàu sẽ áp sát một tàu địch, lúc này thủy thủ cho hai con tàu đập mạnh vào nhau trước khi nhảy lên tàu của đối phương. Kết quả của hành động này sẽ như một trận chiến trên đất liền liên quan đến một trận chiến xáp lá cà giữa hai thủy thủ đoàn [61].

Trong một trận hải chiến được ghi chép lại vào năm 896 [3][57], hạm đội mới của Alfred gồm 9 tàu chặn một nhóm 6 tàu Viking trên miệng một con sông không xác định ở phía nam nước Anh. Người Danes cho neo lại 3 tàu của họ và tiến vào nội địa [57] nhằm để cho người chèo thuyền của họ nghỉ ngơi hoặc đi kiếm thức ăn. Tàu của Alfred lập tức di chuyển để ngăn chặn lối trốn thoát của họ ra biển. Ba tàu Viking còn lại cố gắng vượt qua phòng tiến của người Anh [57]. Chỉ có một tàu vược qua được; tàu của Alfred chặn 2 tàu cònkia lại [57].

Áp sát tàu Viking bằng tàu của chính họ, các thủy thủ người Anh đổ bộ lên tàu của đối phương và giết hết tất cả người trên tàu. Con tàu duy nhất trốn thoát được là do tất cả các tàu nặng hơn của Alfred đều mắc cạn khi thủy triều đi xuống [61]. Những gì xảy ra sau đó là một trận chiến trên đất liền giữa thủy thủ đoàn của những con tàu neo lại. Người Danes, bị áp đảo về quân số, đã có thể bị tiêu diệt nếu thủy triều không nổi lên. Khi điều đó xảy ra, người Danes vội vã quay trở lại thuyền của họ, vốn nhẹ hơn nên đã dễ dàng dời đi trước khi tàu của Alfred đến nơi. Bất lực, người Anh chỉ còn cách nhìn người Viking vược qua họ [61]. Những tên cướp biển đã chịu đựng quá nhiều thương vong (120 người Danes chết khi chống lại 62 người Frisian và Anh) [57] khiến họ gặp khó khăn trong việc đi ra biển. Tất cả tàu của người Danes đều đã quá hư hỏng để di chuyển quanh Sussex và hai tàu bị đẩy về phía bờ biển Sussex (có thể tại Selsey Bill) [57][61]. Các thủy thủ bị đắm tàu bị đưa đi gặp Alfred ở Winchester và đã bị treo cổ sau đó [57].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Alfred_Đại_đế http://books.google.com/books?id=GhNAAAAAYAAJ&dq=a... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1293232 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/1819247 http://archive.org/stream/lawsofearliesten00grea#p... http://archive.org/stream/lawsofearliesten00grea#p... http://archive.org/stream/lawsofearliesten00grea#p... http://www.gutenberg.org/files/657/657.txt http://www.royal.gov.uk/HistoryoftheMonarchy/Kings... https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Alfred...